Chiêu thứ 31: Mỹ Nhân Kế8 min read

Chiêu thứ 31: Mỹ Nhân Kế

Mỹ nhân kế là kế đầu tiên của Chương cuối cùng: Bại Chiến Kế. Sự sắp xếp của Tam Thập Lục kế khá là đặc biệt. Mỗi chương 6 kế, mỗi kế đều dùng 4 từ để miêu tả. Riêng chương cuối cùng thì cả 6 kế đều chỉ có 3 từ mà đứng đầu là Mỹ Nhân Kế.

Mỹ nhân là người đẹp chứ không nhất thiết là Nam hay Nữ. Như thế Mỹ Nhân Kế có thể tách ra là Mỹ Nam Kế hoặc Mỹ Nữ Kế (tất nhiên người xưa chưa nghĩ tới Mỹ Gay Kế hay Mỹ Les Kế)

Huỳnh Thanh Ngân trong bài về Mỹ nhân kế có nói: Anh hùng bất quá mỹ nhân quan và dịch là Anh hùng ko qua được gái đẹp. Có thể đúng với thời xưa. Nhưng với thời nay, anh hùng có thể là nam, nữ, gay, les vv và mỹ nhân cũng có thể là nam, nữ, gay, les vv. Do đó, cái suy nghĩ về Mỹ Nhân Kế phải rộng ra là Người Mút Hồn. Hễ có người mà mút được hồn của ta thì người đó đang dùng Mỹ Nhân Kế với ta vậy.

Yếu Lĩnh:

“Nhắm tới điểm yếu của tướng địch (dù là nam, nữ, gay, les …). Bởi đa phần con người có đam mê và có yếu đuối trước vẻ đẹp (trong và ngoài). Một khi bị hút hồn rồi, khả năng ra quyết định, đánh giá sẽ không còn tỉnh táo, chính xác và ý thức/vô thức của địch trở thành mục tiêu mà ta có thể khai thác được”

Có câu:

“Đàn ông yêu bằng mắt
Đàn bà yêu bằng tai”

Vậy phần lớn đàn ông dễ bị thu hút bởi vẻ bề ngoài: mặt xinh, vếu bự, chân dài vv và vv. Còn đàn bà thì thích nghe lời ngon ngọt, lời khen, lời nói hài hước vv. Đó là nhìn chung. Về việc đánh giá từng cá thể khi sử dụng Mỹ Nhân Kế cần phải “Tri bỉ” nghĩa là biết rõ về thân thế, sự nghiệp, sở thích, quá khứ, mong muốn vv thì mới định hình ra được rạn nức tâm thức (kẽ hở trong ý thức và vô thức) để hạ gục.

Kẽ hở trong ý thức thường dễ hơn là vô thức nhưng kẽ hở vô thức thường đi vào sâu hơn và để lại vết thương khó có thể hàn gắn mà Tâm lý học gọi là Chấn Thương Tâm Lý. Thế nên người sử dụng Mỹ Nhân Kế cần phải có chút Từ bi ko thì than ôi, nước mắt sẽ chảy như sông suối đời đời kiếp kiếp.

Bọn Hồ Ly chúng sinh ra với bản năng phát hiện kẽ nứt. Có điều bản năng này lại đi cùng với một điểm yếu là chúng có xu hướng sử dụng quá mức và không kiểm soát. Kiểu như trẻ con mới biết đi xe đạp cứ đi cả ngày. Chúng lang thang và choén hồn người bằng cách thông qua các kẽ hở tâm thức và phần lớn thời gian chúng vui sướng vì làm được điều đó, chúng ghi nhận như là thành tích của sự tu luyện, chúng tự hào vì số lượng tổn thương trong xã hội mà chúng có thể gây ra. Tất nhiên càng về già, chúng sẽ kiểm soát tốt hơn điều này.

Truyện Kiều ngày xưa chép một câu (với các kĩ năng của sách cổ)

“Này con thuộc lấy nằm lòng
Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề
Chơi cho liễu chán hoa chê
Cho lăn lóc đá cho mê mẩn đời”

Vành ngoài 7 chữ bao gồm:

Thức thứ nhất – Tiễn: Có nghĩa là cắt. Ngày xưa là rủ nhau cắt tóc, se vào với nhau để thể hiện là chung thủy. Ngày nay, đủ trò quà cáp, vật kỉ niệm, lưu niệm, du lịch, khắc tên lên vách núi, khóa tên vào thành cầu thậm chí khắc tên chung lên đầu Phật chúng cũng dám làm. Nói chung, càng làm cho địch tin là ta chung thủy càng tốt. Càng làm cho địch nghĩ chúng chỉ là duy nhất càng tốt.

Thức thứ hai – Thích: Có nghĩa là đâm, chích. Xăm tên nó lên người ta, cũng để nó thấy ta một lòng vì nó. Sau này đi xóa săm sau, đạt mục đích cái đã.

Thức thứ ba – Thiêu: Có nghĩa là đốt, dùng hương đốt vào sáu huyệt. Cái này là thủ pháp phù thủy ngày xưa. Nhưng với ngày nay, ta mang địch đi tới các thầy bói toán, lên đồng mà ta mua trước rồi. Cho chục triệu các thầy sẽ phán là ta và địch là một cặp trời sinh vv.

Thức thứ tư – Giá: Có nghĩa là cưới hỏi làm vợ chồng. Chiêu này vốn là để bọn phò xin chuộc được ra khỏi lầu xanh ngày xưa. Nhưng với ngày nay, tạm gọi là cưới nhau làm màu như mối tình 72 – 27 mà ta đã biết.

Thức thứ năm – Tẩu: Có nghĩa là chạy. Thức này ngày xưa dùng để thịt khách. Hẹn nhau cùng bỏ trốn nhưng mà thuê đầu gấu đợi sẵn ở chỗ hẹn rồi thịt thằng khách. Ngày nay, ứng dụng của nó khác, ta chấp nhận hy sinh, tỏ ra có thể bỏ tất cả để chạy trốn cùng địch, tới chân trời góc biển vv và vv để địch tin tưởng cho tới khi ngã ngửa ra là ta chưa bao giờ muốn bỏ chạy đi đâu.

Thức thứ sáu – Khốc: Có nghĩa là khóc, dùng nước mắt để làm động lòng thương cảm.

Thức thứ bảy – Tử: Có nghĩa là chết. Chết giả chứ không phải chết thật. Thề thốt cho họ tin là mình yêu họ, chỉ biết có họ thôi, nếu không tin thì chết ngay tại chỗ. Đôi khi, chơi cả bài, “không đến được với nhau, chúng mình cùng chết hơn là chẳng lấy được nhau!”. Lúc đó, có tán gia bại sản, đem hết bạc tiền ra dâng cho mình, địch cũng không tiếc.

Vành trong tám nghề thì các vị đi mà google, nói ở đây thẹn chết đi được.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *